con ong đã tỏ đường đi lối về

"Mình đã từng bị một lần, đi vào khu dân cư ngoại thành, lạ đường chẳng biết lối đi, gặp ngay đám cưới chắn hết đường. Họ chỉ mình đi lối khác và thế là đi vào đường cấm xe theo giờ, bị phạt mất mấy củ"; " Việc dựng rạp ven đường phục vụ cho việc Lá trá mi ngắn hơn lá hải đường. Cụ Nguyễn Du đã có phân biệt khi cụ viết: …Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà… Rồi trong tình cảnh khác của Kiều có câu: …Tiếc thay một đoá trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về… Đó cũng là hai cái nạn Khẩu Nghiệp và Đồng Tiền tác quái mà ra. Cửa Trời lại đóng sập và hẹp hơn thêm. Ta sẽ bàn cụ thể về tính chất của hai cái nạn này sắp đến để còn ý thức mà dè chừng chung. Chiếu Gon làng Hới có tiếng khắp nơi. Từ đó cô Gấm theo các tàu thuyền mang chiếu lên thành Thăng Long. Do bản tính thông minh và nhanh nhẹn. Cô hay dẫn đường cho bà con dân làng mang chiếu đi bán ở kinh đô. Họ thường gọi cô là Lộ (vì thông thạo đường đi lối lại). Lòng khiêm tốn thẳm sâu và một khao khát cháy bỏng được đi trên đường lối Chúa sẽ giúp ta có thể tiến xa hơn nữa. Đi trên con đường hẹp, chẳng ai có thể mang vác nhiều thứ, vì cồng kềnh khó đi; nhưng ngược lại, càng nhẹ nhàng, càng từ bỏ thì càng dễ đi. mimpi keluar cacing dari dubur menurut islam. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lòng. Vì vậy đối với bài bình luận này, hy vọng nhà thơ Vương Trọng sẽ mang lại hứng thú cho học sinh, sinh viên học văn, thầy giáo, cô giáo dạy văn cũng như bạn đọc mê Truyện Kiều. Đang xem Con ong đã tỏ đường đi lối về Bình luận một số câu thơ trong Truyện Kiều 1 – Sống làm vợ khắp người taHại thay thác xuống làm ma không chồng. Đây là lời Thuý Kiều thốt lên sau khi nghe Vương Quan kể chuyện bi thảm của Đạm Tiên bên ngôi mộ “sè sè nấm đất”, “dàu dàu ngọn cỏ”, lạnh lẽo cả trong tiết Thanh minh. Đạm Tiên trước, Thuý Kiều sau; ca nhi ngàn xưa và “ca-ve” ngày nay có chung một đặc điểm Đấy là những người con gái tạo hoá ban cho một chút nhan sắc nhưng lại giáng xuống bản thân hoặc gia đình họ những tại hoạ, buộc họ phải gánh chịu, đưa đẩy họ vào chốn lầu xanh, mất quyền làm người, trở thành một món hàng. Vì có chút nhan sắc nên lắm chàng tìm đến; bởi đã trở thành món hàng nên mình không có quyền chọn lựa mà để người ta cư xử với mình như với một món hàng đã bỏ tiền mua. Câu thành ngữ mới “trả tiền bóc bánh” phần nào nói được thái độ cư xử thô bạo, không chút tình cảm của khách làng chơi đối với các cô gái lầu xanh. Đời người một kiếp ca nhi chung chạ với bao người đàn ông, biết mặt không biết tên, “mặc người gió Sở mưa Tần”, xong cuộc, họ bỏ đi không để lại dấu vết, chứ có mấy ai được như chàng Thúc “trước còn trăng gió sau ra đá vàng”! Những đôi lứa yêu nhau chân thành, vì nguyên do nào đó không lấy được nhau, khi chết đi họ còn mang theo cả khối tình xuống chốn tuyền đài. Tình yêu là thế, còn tình dục chỉ là sự thoả mãn xác thịt nhất thời, kiếp này chẳng yêu thương, nói chi đến kiếp sau. Cặp lục bát này về hình thức, là sự đối lập giữa lúc sống và sau khi chết. Nhưng sự đối lập ấy chỉ là hình thức, còn thực chất đó là quan hệ nhân quả khi sống thế thì sau khi chết phải thế! Trong toán học cao cấp có khái niệm “trù mật khắp nơi” và “không đâu trù mật” để nói về hai cực đối lập của sự phân bố các phần tử của tập hợp. Ở đây, hình như Đại thi hào vô hình trung cũng sử dụng khái niệm ấy để nói về “sự phân bố chồng” của kiếp ca nhi ở cõi dương và ở cõi âm khi sống thì ở đâu cũng có chồng, bất cứ người đàn ông nào cũng có thể là chồng, còn chết rồi thì ngược lại không có một ai. Nói “làm ma không chồng” là dự đoán sự cô quạnh khi mình ở cõi âm từ thực tế của kiếp này. Sự thật nghịch lý và bi kịch của kiếp ca nhi chẳng cần đợi đến khi đã “thành ma”, chẳng cần đợi kiếp sau, mà ngay ở kiếp này Khi mình còn nhan sắc thì “xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh”, đến khi đau yếu, bệnh tật thì không kẻ đoái hoài, chết một mình một góc, đâu phải chỉ một Đạm Tiên? “Sống làm vợ khắp người ta” đã nhục, đã khổ lắm rồi, người ca nhi nào cũng chung ý nghĩ “cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”, cho hết thời trẻ trung, cho hết cuộc đời, tưởng khi mình chết đi thì mới được thanh thản. Nhưng không, sự sỉ nhục của kiếp phong trần không chỉ dừng lại trần thế, mà còn theo về cõi âm với một biến tướng mới, về hình thức tưởng như ngược lại những gì ca nhi đã trải, nhưng không hề mang lại niềm vui mà chỉ chuốc lấy nỗi bất hạnh mới thật tệ hại làm ma không chồng! “Sống làm vợ khắp người ta”! Chữ “khắp” mới thật tài tình, hàm chứa sự xô bồ, không hề có sự chọn thường chữ khắp thường đặt trước một danh từ chỉ nơi chốn khắp chợ, khắp đồng, khắp làng, khắp nước… Ở đây Nguyễn Du đã thay đổi cách sử dụng quen thuộc đó, mạnh dạn đặt sau chữ khắp hai chữ người ta thật mới mẻ và bất ngờ. Khắp người ta không loại trừ một loại người nào. Có soạn giả Truyện Kiều không tán thành khái niệm vợ, chồng đối với các cô gái lầu xanh vì vợ chồng thì phải có hôn thú ! nên muốn đề nghị đổi chữ khắp thành chữ chắp vợ chắp người ta! với lý luận rằng cô gái lầu xanh chỉ là vợ chắp, chứ không thể là vợ của khách làng chơi được! Về luật pháp thì phần nào soạn giả này có lý, nhưng đối với việc thẩm định Truyện Kiều nói riêng và thưởng thức thi ca nói chung thì, ý kiến ấy xem ra quá cứng nhắc, khó thuyết phục được ai. Tham khảoBình luận câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung/Cuộc đời và sự nghiệp tác giả Nguyễn Du Nguyễn Du không đợi giấy hôn thú để chỉ khái niệm vợ chồng ở chốn thanh lâu, mà sử dụng đặc trưng lớn nhất của vợ chồng là chuyện chăn gối. Đó là chưa kể ở chốn thanh lâu người ta vẫn quen xưng “chàng chàng, thiếp thiếp” Chàng chàng thiếp thiếp vui bằng được / Bố bố con con chẳng nhận ra – Nguyễn Bính ngày xưa và “vợ vợ, chồng chồng” ngày nay, mà ai cũng hiểu rằng “chàng thiếp”, “vợ chồng” ở đây khác xa khái niệm vợ chồng truyền thống. Phải chăng cặp lục bát này đã phơi bày bi kịch lớn nhất của kiếp ca nhi? 2 – Một mình lưỡng lự canh chầyĐường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Ngày đi chơi Thanh minh gặp mộ Đạm Tiên, đêm Đạm Tiên báo mộng cho biết mình có tên trong sổ đoạn trường, Thuý Kiều “trằn trọc canh khuya”, sụt sùi kinh hãi cho cuộc đời sau này của mình. Trước đó, bên mộ Đạm Tiên, sau khi nghe Vương Quan kể về bi kịch của cô ca kỹ này, Thuý Kiều đã vận vào mình “thấy người nằm đó biết sau thế nào”. Định mệnh là tư tưởng quán xuyến trong Truyện Kiều. Có người dẫn câu “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” để kết luận Nguyễn Du chống lại tư tưởng định mệnh, mà quên rằng câu trích kia không phải là lời tác giả Truyện Kiều, mà là lời của chàng Kim nói lại khi thấy Thuý Kiều quá tin vào tướng, số. Còn cụ Nguyễn Du thì sao? “Cho hay muôn sự tại trời” là kết luận Truyện Kiều cũng là nói lên nhận thức của tác giả. Nhưng trong Truyện Kiều, người tin vào tiền định, vào định mệnh mà bạn đọc dễ nhận biết nhất chính là Thuý Kiều. Cảm thương kiếp Đạm Tiên, đâu chỉ là tình thương đối với người ca nhi bạc mệnh, mà chính Thuý Kiều thương cho mình vì quá khứ của Đạm Tiên chính là “nỗi sau này” của Thuý Kiều. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng hơn 60 lần chữ nỗi, ngoài những kết hợp quen thuộc như nỗi lòng, nỗi riêng, nỗi niềm, nỗi quê …còn có những kết hợp hết sức mới mẻ như nỗi đêm, nỗi ngày nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung, đặc biệt ý nghĩa chữ nỗi được mở rộng ra với “nỗi dọc đường”, và ở đây là “nỗi sau này”. Trong cái đêm “trằn trọc canh khuya”, “lưỡng lự canh chầy”, “nỗi sau này” của Thuý Kiều chưa hề cụ thể, mà chỉ từ cuộc đời của Đạm Tiên mà suy ra cho thân phận của mình. “Nỗi sau này” là nói về điều kinh hãi đang bày sẵn ở phía tương lai, và khi trở thành thực tại thì đó là “Hết nạn nọ, đến nạn kia / Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần / Trong vòng giáo dựng gươm trần / Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi…” như lời sư Tam Hợp đã tổng kết lại. Ở đây sự kinh sợ “nỗi sau này” của Thuý Kiều được tác giả đồng cảm, và diễn biến của phần lớn Truyện Kiều như cốt để chững minh cho “nỗi sau này” đó đáng sợ đến dường nào. 3- Dặm khuya ngất tạnh mù khơiThấy trăng mà thẹn những lời non sông. Xem thêm Với Thuý Kiều, đêm trongTruyện Kiều thường có trăng. Đó là “gương nga chênh chếch nhòm song” đêm Đạm Tiện hiện về báo mộng; “nhặt thưa gương dọi đầu cành” và “vầng trăng vằng vặc giữa trời” đêm tự tình và thề bồi cùng Kim Trọng;“ gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương” đêm lẻn trốn cùng Sở Khanh; “một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời” đêm ở Lâm Tri nhớ Thúc Sinh; “lần đường theo ánh trăng tà về tây” đêm trốn ra khỏi Quan Âm các; “mảnh trăng đã gác non đoài” đêm nàng nhảy xuống sông Tiền Đường… Còn vầng trăng xuất hiện trong cặp lục bát trên kia là trong đêm trên đường nàng theo xe cùng Mã Giám Sinh đi từ quê Bắc Kinh về tận Lâm Tri. Thấy vầng trăng ấy, Thuý Kiều đã liên tưởng đến vầng trăng nào mà thẹn? Tất nhiên nàng không thể nghĩ về những vầng trăng về sau, vì khi đó nàng chưa từng được chứng kiến. Nàng cũng không nghĩ về vầng trăng đã dẫn Đạm Tiên về báo mộng cho mình, mà chắc chắn nàng nghĩ về vầng trăng có liên quan đến kỷ niệm, đến mối tình với chàng Kim, đấy là “vầng trăng vằng vặc giữa trời” của đêm thề bồi, hẹn ước. “Lời non sông” là lời gì vậy? Cũng như “lời vàng đá”, “lời non sông” là lời thề bồi tình yêu của các cặp tình nhân ngày xưa, vì khi thề họ thường mượn những vật thể to lớn như núi sông, quý giá và chắc chắn như vàng đá để nói tình yêu của mình. Ta điểm lại xem “những lời non sông” của Kim, Kiều như thế nào? Dưới vầng trăng vằng vặc đêm ấy, hai mặt một lời, họ đã thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”, hứa “chạm xương khắc cốt” tình cảm của nhau, “chữ đồng là nói tắt chữ đồng tâm, nghĩa là cùng một lòng yêu nhau” như học giả Đào Duy Anh giải thích. Chàng Kim đã thề với Thuý Kiều Ví dù giải kết đến điềuThì đem vàng đá mà liều với thân. Nghĩa là đã yêu nhau rồi, đính hôn rồi ,vì lẽ gì đó mà trời xanh bắt chia lìa thì xin chết với nhau bởi coi lời thề như vàng đá. Khi chia tay Thuý Kiều để về hộ tang chú, chàng Kim cũng từng nhắc đến vầng trăng thề bồi ấy Trăng thề còn đó trơ trơDám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Khi đó, chính Thuý Kiều đã hứa Đã nguyền đôi chữ đồng tâmTrăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai… Thế mà giờ đây, không giữ được lời thề, nàng đã thành vợ người khác rồi, thì không hổ thẹn sao được? Từ Bắc Kinh, Thuý Kiều phải đi xe suốt một tháng ròng mới đến Lâm Tri. Trên đường đi, đêm khuya bất chợt nàng thấy vầng trăng mà thẹn cho những lời mình từng thề thốt mà không sao giữ được. “Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi”. Trước hết, ta hãy dừng lại hai chữ dặm khuya. Nguyễn Du là thi sĩ bậc thầy trong việc nén chữ trong thơ lục bát, nghĩa là dùng ít chữ mà nói được nhiều ý. Dặm khuya không chỉ nói về thời gian là khuya, mà còn nói về không gian là trên đường đi, hàm ý cái cảnh đêm khuya Thuý Kiều chứng kiến là trên đường đi. Các nhà thơ ngày nay chỉ có thể viết được đêm khuya, canh khuya…giỏi lắm cũng chỉ đường khuya là cùng, chứ khó nghĩ ra được hai chữ dặm khuya như tác giả Truyện Kiều trên hai trăm năm trước. Học giả Đào Duy Anh cho in là ngắt tạnh mù khơi” và giải thích “chỉ tình trạng lặng ngắt, vắng tanh”. Tôi không đồng tình với cách giải thích này. Tôi nghiêng về “ngất tạnh, mù khơi” như một số bản Kiều khác, và coi đây là một tiểu đối, nên ta hiều được chức năng ngữ pháp và ý nghĩa của các từ. READ Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều của Nguyễn Du Danh từ mù giúp ta hiểu được chữ ngất cũng là một danh từ, có ý nghĩa là một thứ gì đó thường che khuất tầm mắt người nhìn như mù, như mây, như hơi sương… “Ngất tạnh” cũng giống như mưa tạnh, không còn ngất nữa, “mù khơi” là mù loãng ra, khai thông tầm nhìn. Vì “ngất tạnh, mù khơi” nên nàng Kiều mới nhìn thấy trăng. Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến logic trong thơ, không chỉ trong một câu, mà từ câu này tiếp nối với câu khác. Ở phần Đòan viên, Nguyễn Du đã tả cảnh Trời còn để có hôm nayTan sương đầu ngõ, vén mây giữa trờiHoa tàn mà lại thêm tươi Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Như nhiều bạn đọc đã chú ý về logic trong đoạn thơ này tan sương đầu ngõ để thấy hoa, vén mây giữa trời để thấy trăng. Và, “tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” cũng có ý nghĩa tương tự như “ ngất tạnh, mù khơi” để có thể nhìn thấy trăng. Nhưng cả câu lục “Dặm khuya ngất tạnh mù khơi” chỉ là sự gợi mở về không gian và thời gian, trọng lượng câu thơ tập trung ở câu bát “Thấy trăng mà thẹn những lời non sông”, làm người đọc thấy được từ sâu thẳm nỗi lòng của Thuý Kiều sự đau đớn, mối ân hận tiếc nuối, thẹn với vầng trăng thề bồi bởi chính mình vì hoàn cảnh mà thành người phụ bạc tình yêu. 4 – Thân lươn bao quản lấm đầuChút lòng trinh bạch từ sau xin chừa. Đây là lời hứa của Thuý Kiều khi bị Tú bà đánh đập vì tội lẻn trốn đi cùng Sở Khanh. Thông thường, khi con cái hoặc thuộc hạ mắc tội bị bố mẹ hoặc người có quyền đánh đập, thì người có tội thường hứa từ nay về sau xin chừa, không bao giờ dám phạm vào tội ấy nữa. Lòng trinh bạch là gì, phải chăng đấy cũng là một loại tội lội mà Thuý Kiều hứa “từ sau xin chừa”? Lòng trinh bạch là lòng trong trắng của Thuý Kiều. Nhưng sao không phải là tấm lòng trinh bạch mà lại là chút lòng trinh bạch? Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều chữ chút, để chỉ một ít, một vật nhỏ mọn với lối nói khiêm nhường như chút dạ, chút lòng, chút phận, chút thân, chút riêng, chút ước… Nhưng ở câu thơ này, “chút lòng trinh bạch” còn hàm chứa một nội dung khác lòng trinh bạch của Thuý Kiều đã bị Mã Giám Sinh cướp đi phần lớn trong đêm ở nhà trọ trước ngày theo xe để về Lâm Tri. “Tiếc thay một đoá trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”. Cái quý nhất của người con gái đã không còn nữa, nàng toan tự tử nhưng sợ liên luỵ đến bố mẹ, đành ngậm tủi nuốt hờn. Nhưng dù sao khi ấy nàng vẫn nghĩ Mã Giám Sinh mua mình về làm vợ, nên y có quyền làm điều đó. Khi về đến Lâm Tri, mới hay được sự tình và nàng quyết giữ lấy chút lòng trinh bạch ít ỏi còn lại. Ở đây “lòng trinh bạch” còn hàm chứa thêm ý nghĩa là nếp con nhà đã làm những gì với mục đích giữ lấy nó? Lần đầu khi Tú Bà bắt nàng tiếp khách, Thuý Kiều đã toan tự tử “một dao oan nghiệp đứt dây phong trần”, để cho mụ Tú phải “cắt người coi sóc rước thầy thuốc men” nàng mới tỉnh lại được. Khi tỉnh ra, nàng không tự tử tiếp, một mặt vì lời hứa hẹn giả dối của mụ Tú “tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà”, nhưng cái chính là nàng tin lời Đạm Tiên báo mộng “Số còn nặng kiếp má đào / Người dù muốn quyết trời nào đã cho”. Xem thêm Đề Thi Tuyển Sinh Lớp 10 Năm 2016 Đà Nẵng, Đáp Án Đề Thi Vào Lớp 10 Môn Toán Đà Nẵng 2016 Như vậy, nàng không thể dùng cái chết để giữ chút lòng trinh bạch ở chốn lầu xanh. Thế thì trốn theo Sở Khanh, một việc làm nàng không tin ở thành công mà phó thác cho số phận “ Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Mà xem con tạo xoay vần đến đâu”. Nhưng tránh đâu cho khỏi trời, nàng bị bắt về đánh đập “Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa”, làm cho nàng nhận ra một chân lý cay đắng ở chốn này, lòng trinh bạch là tội lỗi. Hay nói một cách khác, Tú Bà đã biết cách làm cho Thuý Kiều phải từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của nàng. Thì ra ở đời, con người phải đổi thay theo hoàn cảnh. Lòng trinh bạch là của quý, ai chẳng muốn giữ gìn, nâng niu, nhưng khi đã bước vào vũng bùn lầu xanh, đành từ bỏ thôi, mình đã thành con lươn chui rúc rồi thì làm sao giữ cho đầu khỏi lấm? Còn gì đáng thương hơn sự đầu hàng số phận đau đớn của Thuý Kiều? Post navigation Skip to contentBài văn Bình luận một số câu thơ trong Truyện KiềuHàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lòng. Vì vậy đối với bài bình luận này, hy vọng nhà thơ Vương Trọng sẽ mang lại hứng thú cho học sinh, sinh viên học văn, thầy giáo, cô giáo dạy văn cũng như bạn đọc mê Truyện luận một số câu thơ trong Truyện Kiều1 – Sống làm vợ khắp người ta Hại thay thác xuống làm ma không là lời Thuý Kiều thốt lên sau khi nghe Vương Quan kể chuyện bi thảm của Đạm Tiên bên ngôi mộ “sè sè nấm đất”, “dàu dàu ngọn cỏ”, lạnh lẽo cả trong tiết Thanh Tiên trước, Thuý Kiều sau; ca nhi ngàn xưa và “ca-ve” ngày nay có chung một đặc điểm Đấy là những người con gái tạo hoá ban cho một chút nhan sắc nhưng lại giáng xuống bản thân hoặc gia đình họ những tại hoạ, buộc họ phải gánh chịu, đưa đẩy họ vào chốn lầu xanh, mất quyền làm người, trở thành một món có chút nhan sắc nên lắm chàng tìm đến; bởi đã trở thành món hàng nên mình không có quyền chọn lựa mà để người ta cư xử với mình như với một món hàng đã bỏ tiền mua. Câu thành ngữ mới “trả tiền bóc bánh” phần nào nói được thái độ cư xử thô bạo, không chút tình cảm của khách làng chơi đối với các cô gái lầu người một kiếp ca nhi chung chạ với bao người đàn ông, biết mặt không biết tên, “mặc người gió Sở mưa Tần”, xong cuộc, họ bỏ đi không để lại dấu vết, chứ có mấy ai được như chàng Thúc “trước còn trăng gió sau ra đá vàng”!Những đôi lứa yêu nhau chân thành, vì nguyên do nào đó không lấy được nhau, khi chết đi họ còn mang theo cả khối tình xuống chốn tuyền đài. Tình yêu là thế, còn tình dục chỉ là sự thoả mãn xác thịt nhất thời, kiếp này chẳng yêu thương, nói chi đến kiếp sau. Cặp lục bát này về hình thức, là sự đối lập giữa lúc sống và sau khi chết. Nhưng sự đối lập ấy chỉ là hình thức, còn thực chất đó là quan hệ nhân quả khi sống thế thì sau khi chết phải thế!Trong toán học cao cấp có khái niệm “trù mật khắp nơi” và “không đâu trù mật” để nói về hai cực đối lập của sự phân bố các phần tử của tập hợp. Ở đây, hình như Đại thi hào vô hình trung cũng sử dụng khái niệm ấy để nói về “sự phân bố chồng” của kiếp ca nhi ở cõi dương và ở cõi âm khi sống thì ở đâu cũng có chồng, bất cứ người đàn ông nào cũng có thể là chồng, còn chết rồi thì ngược lại không có một “làm ma không chồng” là dự đoán sự cô quạnh khi mình ở cõi âm từ thực tế của kiếp này. Sự thật nghịch lý và bi kịch của kiếp ca nhi chẳng cần đợi đến khi đã “thành ma”, chẳng cần đợi kiếp sau, mà ngay ở kiếp này Khi mình còn nhan sắc thì “xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh”, đến khi đau yếu, bệnh tật thì không kẻ đoái hoài, chết một mình một góc, đâu phải chỉ một Đạm Tiên? “Sống làm vợ khắp người ta” đã nhục, đã khổ lắm rồi, người ca nhi nào cũng chung ý nghĩ “cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”, cho hết thời trẻ trung, cho hết cuộc đời, tưởng khi mình chết đi thì mới được thanh không, sự sỉ nhục của kiếp phong trần không chỉ dừng lại trần thế, mà còn theo về cõi âm với một biến tướng mới, về hình thức tưởng như ngược lại những gì ca nhi đã trải, nhưng không hề mang lại niềm vui mà chỉ chuốc lấy nỗi bất hạnh mới thật tệ hại làm ma không chồng!“Sống làm vợ khắp người ta”! Chữ “khắp” mới thật tài tình, hàm chứa sự xô bồ, không hề có sự chọn thường chữ khắp thường đặt trước một danh từ chỉ nơi chốn khắp chợ, khắp đồng, khắp làng, khắp nước… Ở đây Nguyễn Du đã thay đổi cách sử dụng quen thuộc đó, mạnh dạn đặt sau chữ khắp hai chữ người ta thật mới mẻ và bất ngờ. Khắp người ta không loại trừ một loại người soạn giả Truyện Kiều không tán thành khái niệm vợ, chồng đối với các cô gái lầu xanh vì vợ chồng thì phải có hôn thú ! nên muốn đề nghị đổi chữ khắp thành chữ chắp vợ chắp người ta! với lý luận rằng cô gái lầu xanh chỉ là vợ chắp, chứ không thể là vợ của khách làng chơi được!Về luật pháp thì phần nào soạn giả này có lý, nhưng đối với việc thẩm định Truyện Kiều nói riêng và thưởng thức thi ca nói chung thì, ý kiến ấy xem ra quá cứng nhắc, khó thuyết phục được khảo Bình luận câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung/Cuộc đời và sự nghiệp tác giả Nguyễn DuNguyễn Du không đợi giấy hôn thú để chỉ khái niệm vợ chồng ở chốn thanh lâu, mà sử dụng đặc trưng lớn nhất của vợ chồng là chuyện chăn gối. Đó là chưa kể ở chốn thanh lâu người ta vẫn quen xưng “chàng chàng, thiếp thiếp” Chàng chàng thiếp thiếp vui bằng được / Bố bố con con chẳng nhận ra – Nguyễn Bính ngày xưa và “vợ vợ, chồng chồng” ngày nay, mà ai cũng hiểu rằng “chàng thiếp”, “vợ chồng” ở đây khác xa khái niệm vợ chồng truyền thống. Phải chăng cặp lục bát này đã phơi bày bi kịch lớn nhất của kiếp ca nhi?2 – Một mình lưỡng lự canh chầy Đường xa nghĩ nỗi sau này mà đi chơi Thanh minh gặp mộ Đạm Tiên, đêm Đạm Tiên báo mộng cho biết mình có tên trong sổ đoạn trường, Thuý Kiều “trằn trọc canh khuya”, sụt sùi kinh hãi cho cuộc đời sau này của mình. Trước đó, bên mộ Đạm Tiên, sau khi nghe Vương Quan kể về bi kịch của cô ca kỹ này, Thuý Kiều đã vận vào mình “thấy người nằm đó biết sau thế nào”. Định mệnh là tư tưởng quán xuyến trong Truyện Kiều. Có người dẫn câu “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” để kết luận Nguyễn Du chống lại tư tưởng định mệnh, mà quên rằng câu trích kia không phải là lời tác giả Truyện Kiều, mà là lời của chàng Kim nói lại khi thấy Thuý Kiều quá tin vào tướng, cụ Nguyễn Du thì sao? “Cho hay muôn sự tại trời” là kết luận Truyện Kiều cũng là nói lên nhận thức của tác giả. Nhưng trong Truyện Kiều, người tin vào tiền định, vào định mệnh mà bạn đọc dễ nhận biết nhất chính là Thuý Kiều. Cảm thương kiếp Đạm Tiên, đâu chỉ là tình thương đối với người ca nhi bạc mệnh, mà chính Thuý Kiều thương cho mình vì quá khứ của Đạm Tiên chính là “nỗi sau này” của Thuý Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng hơn 60 lần chữ nỗi, ngoài những kết hợp quen thuộc như nỗi lòng, nỗi riêng, nỗi niềm, nỗi quê …còn có những kết hợp hết sức mới mẻ như nỗi đêm, nỗi ngày nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung, đặc biệt ý nghĩa chữ nỗi được mở rộng ra với “nỗi dọc đường”, và ở đây là “nỗi sau này”. Trong cái đêm “trằn trọc canh khuya”, “lưỡng lự canh chầy”, “nỗi sau này” của Thuý Kiều chưa hề cụ thể, mà chỉ từ cuộc đời của Đạm Tiên mà suy ra cho thân phận của mình. “Nỗi sau này” là nói về điều kinh hãi đang bày sẵn ở phía tương lai, và khi trở thành thực tại thì đó là “Hết nạn nọ, đến nạn kia / Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần / Trong vòng giáo dựng gươm trần / Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi…” như lời sư Tam Hợp đã tổng kết lại. Ở đây sự kinh sợ “nỗi sau này” của Thuý Kiều được tác giả đồng cảm, và diễn biến của phần lớn Truyện Kiều như cốt để chững minh cho “nỗi sau này” đó đáng sợ đến dường Dặm khuya ngất tạnh mù khơi Thấy trăng mà thẹn những lời non Thuý Kiều, đêm trongTruyện Kiều thường có trăng. Đó là “gương nga chênh chếch nhòm song” đêm Đạm Tiện hiện về báo mộng; “nhặt thưa gương dọi đầu cành” và “vầng trăng vằng vặc giữa trời” đêm tự tình và thề bồi cùng Kim Trọng; “ gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương” đêm lẻn trốn cùng Sở Khanh; “một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời” đêm ở Lâm Tri nhớ Thúc Sinh; “lần đường theo ánh trăng tà về tây” đêm trốn ra khỏi Quan Âm các; “mảnh trăng đã gác non đoài” đêm nàng nhảy xuống sông Tiền Đường…Còn vầng trăng xuất hiện trong cặp lục bát trên kia là trong đêm trên đường nàng theo xe cùng Mã Giám Sinh đi từ quê Bắc Kinh về tận Lâm Tri. Thấy vầng trăng ấy, Thuý Kiều đã liên tưởng đến vầng trăng nào mà thẹn? Tất nhiên nàng không thể nghĩ về những vầng trăng về sau, vì khi đó nàng chưa từng được chứng kiến. Nàng cũng không nghĩ về vầng trăng đã dẫn Đạm Tiên về báo mộng cho mình, mà chắc chắn nàng nghĩ về vầng trăng có liên quan đến kỷ niệm, đến mối tình với chàng Kim, đấy là “vầng trăng vằng vặc giữa trời” của đêm thề bồi, hẹn ước.“Lời non sông” là lời gì vậy? Cũng như “lời vàng đá”, “lời non sông” là lời thề bồi tình yêu của các cặp tình nhân ngày xưa, vì khi thề họ thường mượn những vật thể to lớn như núi sông, quý giá và chắc chắn như vàng đá để nói tình yêu của mình. Ta điểm lại xem “những lời non sông” của Kim, Kiều như thế nào? Dưới vầng trăng vằng vặc đêm ấy, hai mặt một lời, họ đã thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”, hứa “chạm xương khắc cốt” tình cảm của nhau, “chữ đồng là nói tắt chữ đồng tâm, nghĩa là cùng một lòng yêu nhau” như học giả Đào Duy Anh giải thích. Chàng Kim đã thề với Thuý KiềuVí dù giải kết đến điều Thì đem vàng đá mà liều với là đã yêu nhau rồi, đính hôn rồi ,vì lẽ gì đó mà trời xanh bắt chia lìa thì xin chết với nhau bởi coi lời thề như vàng chia tay Thuý Kiều để về hộ tang chú, chàng Kim cũng từng nhắc đến vầng trăng thề bồi ấyTrăng thề còn đó trơ trơ Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Khi đó, chính Thuý Kiều đã hứaĐã nguyền đôi chữ đồng tâm Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai… Thế mà giờ đây, không giữ được lời thề, nàng đã thành vợ người khác rồi, thì không hổ thẹn sao được?Từ Bắc Kinh, Thuý Kiều phải đi xe suốt một tháng ròng mới đến Lâm Tri. Trên đường đi, đêm khuya bất chợt nàng thấy vầng trăng mà thẹn cho những lời mình từng thề thốt mà không sao giữ được. “Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi”. Trước hết, ta hãy dừng lại hai chữ dặm khuya. Nguyễn Du là thi sĩ bậc thầy trong việc nén chữ trong thơ lục bát, nghĩa là dùng ít chữ mà nói được nhiều ý. Dặm khuya không chỉ nói về thời gian là khuya, mà còn nói về không gian là trên đường đi, hàm ý cái cảnh đêm khuya Thuý Kiều chứng kiến là trên đường nhà thơ ngày nay chỉ có thể viết được đêm khuya, canh khuya…giỏi lắm cũng chỉ đường khuya là cùng, chứ khó nghĩ ra được hai chữ dặm khuya như tác giả Truyện Kiều trên hai trăm năm trước. Học giả Đào Duy Anh cho in là ngắt tạnh mù khơi” và giải thích “chỉ tình trạng lặng ngắt, vắng tanh”. Tôi không đồng tình với cách giải thích này. Tôi nghiêng về “ngất tạnh, mù khơi” như một số bản Kiều khác, và coi đây là một tiểu đối, nên ta hiều được chức năng ngữ pháp và ý nghĩa của các Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều của Nguyễn DuDanh từ mù giúp ta hiểu được chữ ngất cũng là một danh từ, có ý nghĩa là một thứ gì đó thường che khuất tầm mắt người nhìn như mù, như mây, như hơi sương… “Ngất tạnh” cũng giống như mưa tạnh, không còn ngất nữa, “mù khơi” là mù loãng ra, khai thông tầm nhìn. Vì “ngất tạnh, mù khơi” nên nàng Kiều mới nhìn thấy trăng. Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến logic trong thơ, không chỉ trong một câu, mà từ câu này tiếp nối với câu khác. Ở phần Đòan viên, Nguyễn Du đã tả cảnhTrời còn để có hôm nay Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời Hoa tàn mà lại thêm tươi Trăng tàn mà lại hơn mười rằm nhiều bạn đọc đã chú ý về logic trong đoạn thơ này tan sương đầu ngõ để thấy hoa, vén mây giữa trời để thấy trăng. Và, “tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” cũng có ý nghĩa tương tự như “ ngất tạnh, mù khơi” để có thể nhìn thấy trăng. Nhưng cả câu lục “Dặm khuya ngất tạnh mù khơi” chỉ là sự gợi mở về không gian và thời gian, trọng lượng câu thơ tập trung ở câu bát “Thấy trăng mà thẹn những lời non sông”, làm người đọc thấy được từ sâu thẳm nỗi lòng của Thuý Kiều sự đau đớn, mối ân hận tiếc nuối, thẹn với vầng trăng thề bồi bởi chính mình vì hoàn cảnh mà thành người phụ bạc tình – Thân lươn bao quản lấm đầu Chút lòng trinh bạch từ sau xin là lời hứa của Thuý Kiều khi bị Tú bà đánh đập vì tội lẻn trốn đi cùng Sở Khanh. Thông thường, khi con cái hoặc thuộc hạ mắc tội bị bố mẹ hoặc người có quyền đánh đập, thì người có tội thường hứa từ nay về sau xin chừa, không bao giờ dám phạm vào tội ấy nữa. Lòng trinh bạch là gì, phải chăng đấy cũng là một loại tội lội mà Thuý Kiều hứa “từ sau xin chừa”? Lòng trinh bạch là lòng trong trắng của Thuý sao không phải là tấm lòng trinh bạch mà lại là chút lòng trinh bạch? Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều chữ chút, để chỉ một ít, một vật nhỏ mọn với lối nói khiêm nhường như chút dạ, chút lòng, chút phận, chút thân, chút riêng, chút ước… Nhưng ở câu thơ này, “chút lòng trinh bạch” còn hàm chứa một nội dung khác lòng trinh bạch của Thuý Kiều đã bị Mã Giám Sinh cướp đi phần lớn trong đêm ở nhà trọ trước ngày theo xe để về Lâm Tri. “Tiếc thay một đoá trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”. Cái quý nhất của người con gái đã không còn nữa, nàng toan tự tử nhưng sợ liên luỵ đến bố mẹ, đành ngậm tủi nuốt dù sao khi ấy nàng vẫn nghĩ Mã Giám Sinh mua mình về làm vợ, nên y có quyền làm điều đó. Khi về đến Lâm Tri, mới hay được sự tình và nàng quyết giữ lấy chút lòng trinh bạch ít ỏi còn lại. Ở đây “lòng trinh bạch” còn hàm chứa thêm ý nghĩa là nếp con nhà đã làm những gì với mục đích giữ lấy nó? Lần đầu khi Tú Bà bắt nàng tiếp khách, Thuý Kiều đã toan tự tử “một dao oan nghiệp đứt dây phong trần”, để cho mụ Tú phải “cắt người coi sóc rước thầy thuốc men” nàng mới tỉnh lại được. Khi tỉnh ra, nàng không tự tử tiếp, một mặt vì lời hứa hẹn giả dối của mụ Tú “tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà”, nhưng cái chính là nàng tin lời Đạm Tiên báo mộng “Số còn nặng kiếp má đào / Người dù muốn quyết trời nào đã cho”.Như vậy, nàng không thể dùng cái chết để giữ chút lòng trinh bạch ở chốn lầu xanh. Thế thì trốn theo Sở Khanh, một việc làm nàng không tin ở thành công mà phó thác cho số phận “ Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Mà xem con tạo xoay vần đến đâu”. Nhưng tránh đâu cho khỏi trời, nàng bị bắt về đánh đập “Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa”, làm cho nàng nhận ra một chân lý cay đắng ở chốn này, lòng trinh bạch là tội lỗi. Hay nói một cách khác, Tú Bà đã biết cách làm cho Thuý Kiều phải từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của ra ở đời, con người phải đổi thay theo hoàn cảnh. Lòng trinh bạch là của quý, ai chẳng muốn giữ gìn, nâng niu, nhưng khi đã bước vào vũng bùn lầu xanh, đành từ bỏ thôi, mình đã thành con lươn chui rúc rồi thì làm sao giữ cho đầu khỏi lấm? Còn gì đáng thương hơn sự đầu hàng số phận đau đớn của Thuý Kiều? Trang Chủ / Thơ thiếu nhi / Con ong chuyên cần Bài thơ Con ong chuyên cầnBài thơ Con ong chuyên cầnCon Ong bé nhỏ chuyên cần Mải mê bay khắp đồng gần, rừng xa Ong đi tìm hút nhụy hoa Về tìm mật ngọt thật là đáng giả Vũ Quang VinhCon Ong bé nhỏ chuyên cần, Mải mê bay khắp đồng gần, rừng xaHình ảnh Bài thơ Lời chào của hoa Hoa còn ngái ngủ, Ong đã đến rồi Hải Du vẫn lang thang qua những con phố đã lác đác lên đèn, cố gắng tìm kiếm điều gì đó chẳng thể định hình được. Suốt trưa cà phê tán gẫu với đám bạn chỉ giúp cô tạm quên đi những điều không nên nhớ. Nhưng lúc này đây, vẫn là sự trống trải không gì bù lấp nổi. Cô vẫn đang cô đơn. Phải, cô vẫn rất cô đơn. Nỗi cô đơn gặm nhấm trái tim tôi. Đã 2 tuần nay Thái Hoàng không còn xuất hiện, cứ như là đột ngột biến mất khỏi cuộc sống này vậy. Không một tin nhắn, không một cuộc điện thoại, không email, mặt đối mặt càng không! Với cô khoảng thời gian đó là quá dài. Hải Du cố tìm kiếm mọi dấu vết của anh bằng cách truy cập Facebook, chỉ để cảm nhận vẫn đang gần anh, chỉ để cập nhật về cuộc sống hiện tại của anh, nhưng trang web lạnh tanh, rong rêu vì bị anh bỏ bẵng. Vô cảm. Kỳ lạ thật. Cứ tưởng sau ngần ấy yêu thương của hơn 1 năm say đắm, cuộc chia ly ít ra cũng phải nhuốm sắc hồng, hay li kì, ướt át kiểu trong phim Hàn Quốc. Nói chia tay là dứt luôn sao? Không nhớ nhung, tìm kiếm? Cứ tưởng ngần ấy thời gian bên nhau, dù cái hormone đam mê adrenaline gì đó đã lắng, không còn khiến tim đập nhanh, máu nóng tăng dồn dập mỗi khi thấy nhau, thì vẫn còn có cái gọi là thói quen chứ! Cô đã biến mất hoàn toàn khỏi suy nghĩ của anh, không còn chút gì, dù chỉ là một thói quen sao? 21 tuổi, Hải Du đang còn rất xuân sắc. Vẻ non tơ tràn trề trên mái tóc dài mướt xanh mơn mởn, đôi mắt sáng đen lay láy, đôi lông mày rậm hơi quá mức cần thiết so với khuôn mặt thiếu nữ thanh tú. Ở tuổi của Hải Du, nhiều cô gái vẫn còn mải miết theo đuổi giấc mơ học hành, trong khi cô đã qua một mối tình và đang gắn mình với mối tình thứ hai đầy đam mê, say đắm. Cô yêu Thái Hoàng bởi hai người có một điểm chung Đều đã từng yêu, tổn thương trong tình yêu, và sợ yêu như chim sợ cành cong vì đã một lần phải đạn. Thái Hoàng hơn cô đến 5 tuổi nhưng tư chất không khác gì đứa trẻ. Học hành dở dang và chưa sự nghiệp. Bù lại, anh có một gia đình giàu có, bố mẹ đều là những người tốt và hết lòng nâng đỡ con trai. Thái Hoàng không có nhiều mối quan hệ phức tạp với phụ nữ, đó là điểm khiến Hải Du thấy yên tâm. Bởi cô tuy trẻ trung nhưng về nhan sắc không có gì đáng gọi là nổi bật, hơn thế nữa, gia cảnh cô rất nghèo. Đến với Thái Hoàng, Hải Du như hồi sinh. Mọi nỗi đau về tình cũ đều kín miệng. Cô lại lao vào yêu anh, như yêu lần đầu vậy. Người ta nói đúng, phụ nữ rất mau quên. Khi bên người đàn ông này, người đàn ông trước không còn ý nghĩa. Mối quan hệ của hai người chắc chắn tới mức, tưởng như có thể kết hôn bất cứ lúc nào. Mọi người trong gia đình Thái Hoàng đều biết cô, mẹ anh rất quí cô, bà thậm chí có những lúc tâm sự với cô như mẹ và con gái. Cũng chính vì lẽ đó, gia cảnh Hải Du thế nào, bố mẹ cô không hạnh phúc ra sao, bà đều biết cả. Với tình yêu của Thái Hoàng, Hải Du có cảm giác hoàn toàn an tâm. Cô không ngần ngại gửi trao thân xác. Đó không gọi là dâng hiến, trước anh, cô đã không còn. Nhưng tình yêu lớn hơn những điều tầm thường của sự “còn, mất”. Cô nghĩ vậy. Yêu là không bao giờ phải nói lời hối tiếc. Cô lăn xả vào tình yêu đó như con thiêu thân, gắn với Thái Hoàng cả ngày mà dường như vẫn không đủ. Tối muộn khi đã chia tay họ vẫn còn nhắn tin, lên mạng chat với nhau. Cũng có khi cả hai cùng đi du lịch như cặp vợ chồng mới cưới đang tận hưởng những tháng ngày hạnh phúc nhất. Mải yêu quên lối, cô không biết rằng muôn đời nay vẫn vậy, con ong sẽ chán khi đã tỏ đường đi lối về. Tình yêu chết yểu khi vừa mới qua 1 năm đã già cỗi và nhàm chán như hôn nhân của những cặp vợ chồng đi qua cả chục năm chăn gối. Hải Du đủ tinh tế để nhận ra sự lảng tránh ngày càng rõ ràng trong thái độ của anh. Nhưng cô vẫn không thể ngờ, tất cả có thể kết thúc nhanh đến thế, khi anh lạnh lùng “Em đừng tìm gặp anh nữa, anh muốn tập trung học, còn nhiều việc quan trọng phải làm cho tương lai”. Vậy còn cô, cô là gì của anh? Cô không hề quan trọng? Tương lai của anh liệu còn có cô trong đó? “Con ong sẽ chán khi đã tỏ đường đi lối về”, bài học này cô phải biết từ trước khi quen anh. Tâm sự Thứ tư, 25/8/2010, 1836 GMT+7 Chuyện của mình và bạn giống nhau 99% đấy, chỉ khác là mình yêu đến 9 năm. Sau đó, mình đã chia tay và hiện nay đã lấy chồng. Mình nhiều lúc suy nghĩ lại "Nếu ngày xưa mình trao đời con gái cho anh chàng người yêu 9 năm của mình thì bây giờ chuyện gì xảy ra?". Lam Ngoc> Người yêu thay đổi vì không được thỏa mãn From Lam Ngoc Sent Saturday, August 21, 2010 915 PM Chào bạn, Mình rất thông cảm khi nghe câu chuyện của Lan. Thật sự, hoàn cảnh của bạn, mình từng trải qua. Mình cũng đã có mối tình 9 năm và những tình tiết giống y hệt như bạn. Chúng mình yêu từ lúc học lớp 10, trải qua suốt thời sinh viên với nhau. Rồi ra trường cả 2 đều có việc làm ổn định. Mình giục cưới, nhưng anh ấy cứ nói còn phải lo thăng tiến trong công việc. Mấy lần mình cũng bắt gặp anh đi cặp kè với mấy cô khác và cũng cãi vã, cũng thề thốt y như anh người yêu của bạn. Thực sự, chuyện của mình và bạn giống nhau 99% đấy, chỉ khác là mình yêu đến 9 năm. Sau đó, mình đã chia tay và hiện nay đã lấy chồng. Bạn ơi, người như vậy không xứng đáng để bạn yêu đâu. Nếu anh ấy yêu bạn thực sự thì đã kết hôn với bạn từ rất lâu rồi. Người đàn ông có trách nhiệm là phải có ý thức xây dựng gia đình với người mình yêu để có thể ở bên nhau suốt đời và chăm lo cho người yêu mình. Bạn ơi, có những lúc mình cũng ân hận vì nghĩ mình phụ tình anh ấy, tình yêu 9 năm sâu sắc lắm biết bao vui buồn, nhưng mình đặt trường hợp khi con ong "đã tỏ đường đi lối về" thì anh ấy còn tôn trọng mình không? Bạn ơi, đàn ông ai cũng vậy, nhất là đàn ông Á đông, đa phần họ đều muốn chiếm đoạt thân xác của người yêu, nhưng khi cưới thì họ sẽ chọn một cô gái còn trinh, xinh xắn, trẻ đẹp hơn người yêu cũ. Họ rất quan trọng chữ trinh bạn à. Thật sự, rất hiếm đàn ông có trách nhiệm sau khi họ đã quan hệ thể xác với bạn. Bạn đừng dại dột tin lời anh ấy để rồi trao thân cho anh và cả cuộc đời bạn sẽ phải phụ thuộc vào một kẻ ngụy quân tử. Mình rất thông cảm với bạn, mình nói thật đến bây giờ mình cũng không thể nào quên mối tình đầu rất đẹp đó, nhưng thà chia tay nhau để còn có cái gì tốt đẹp cho nhau còn hơn sau này mình hận anh ấy đến muôn đời. Mình mong bạn sớm có quyết định sáng suốt. Cuối cùng mình khuyên bạn một câu, tình yêu không phải là thời gian dài là yêu nhiều đâu, càng yêu lâu, người ta càng nhàm chán nhau và người ta chỉ muốn chiếm đoạt thân xác mà thôi. Mình là con gái, phải giữ cái ngàn vàng và chỉ trao đúng cho người chồng của mình mà thôi. Hiện giờ mình có cuộc sống rất hạnh phúc vì chồng mình rất yêu thương và tin tưởng mình chính vì mình đã trao cho anh cái ngàn vàng của đời con gái trong đêm tân hôn đấy bạn à. Mình nhiều lúc suy nghĩ lại "Nếu ngày xưa mình trao đời con gái cho anh chàng người yêu 9 năm của mình thì bây giờ chuyện gì xảy ra?".

con ong đã tỏ đường đi lối về